Trong thế giới huyền diệu của Kinh Dịch, việc bói quẻ không chỉ là một nghi thức cầu may mà còn là phương tiện để thấu hiểu vận động của vũ trụ và định hướng hành động cá nhân. Tuy nhiên, “cách giải quẻ bói” Kinh Dịch không đơn thuần là đối chiếu tên quẻ với câu hỏi, mà ẩn chứa một chiều sâu triết lý và sự tương quan phức tạp giữa các yếu tố. Bài viết này sẽ đi sâu vào những nguyên lý cốt lõi để luận giải quẻ bói một cách thấu đáo, vượt qua những lối giải truyền thống cứng nhắc để nắm bắt được “sức huyền bí” đang chi phối vấn đề mà người bói quan tâm.
I. Nền Tảng Quan Trọng Trong Cách Giải Quẻ Bói Kinh Dịch
A. Tiếp Cận Bản Chất Thay Vì Tên Gọi
Nhiều tác phẩm khảo cứu về Kinh Dịch thường gặp phải một số thắc mắc, đặc biệt là trong cách giải quẻ bói. Cổ thánh hiền dường như đã nhìn thấy ý nghĩa thâm trầm và hướng diễn tiến của mỗi quẻ bằng một trực giác kỳ diệu mà không cần lý giải cặn kẽ. Dù các bậc tiền bối như cụ Phan đã cố gắng cắt nghĩa cái nhìn đó bằng lý luận, vẫn còn những khoảng trống cần được bổ khuyết.
Trước hết, việc cổ thánh hiền đặt tên cho các quẻ (ví dụ: quẻ Tụng số 6 là kiện cáo, quẻ Sư số 7 là đem quân đi đánh giặc, quẻ Tỉnh số 48 là cái giếng) và lời giải thích cổ điển thường bám sát vào tên quẻ, dẫn đến những câu hỏi khó giải đáp. Chẳng hạn, một người đang thất nghiệp muốn bói xem có nên xin việc ở hãng X không, nếu bói được quẻ Sư thì có vẻ như không ăn nhập, vì xin việc làm không liên quan gì đến việc đánh giặc.
Chính vì vậy, khi luận giải quẻ, chúng ta không nên quá bám sát vào tên quẻ mà chỉ nên tìm kiếm những “sức huyền bí” nào đang chi phối vấn đề đang bói. Ví dụ, quẻ Địa Thủy Sư mang sức chịu đựng, nhẫn nại của quái Khôn và sức quả cảm, dũng mãnh của quái Khảm. Vì Khảm ở hạ quái, nó có khí thế xông lên, hướng dẫn quần chúng Khôn theo mình làm một công việc gì đó. Đây là ý chính bàng bạc trong quẻ Sư, có thể áp dụng cho bất cứ vấn đề nào như xin việc làm, hôn nhân, kiện cáo, giáo dục, ngoại giao, chứ không riêng gì việc đem quân đi đánh giặc.
Nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận lời giải của cổ thánh hiền, mà là cố gắng:
- Giải thích cái nhìn kỳ diệu đó bằng lý luận thông thường theo những nguyên lý Kinh Dịch, tức là ảnh hưởng tương quan của các sức mạnh huyền bí (được tượng trưng bằng các quái) đang chi phối quẻ.
- Khi các sức huyền bí đã được vạch rõ để đi tới một kết luận tương đương với cái nhìn trực giác của cổ thánh hiền, bất cứ quẻ nào bói được trong 64 quẻ cũng có thể dùng để tiên đoán về bất cứ vấn đề nào đang bói.
B. Phân Tích Hai Quái Thượng Hạ (Ngoại Quái và Nội Quái)
Mỗi quẻ 6 hào bao gồm hai quẻ 3 hào: một ở trên gọi là thượng quái (hay ngoại quái), một ở dưới gọi là hạ quái (hay nội quái). Để giải quẻ, trước hết cần xem mỗi quái đó có khuynh hướng âm hoặc dương, được tượng hình bằng vật gì và có ý nghĩa nào về ngũ hành, phương hướng, tính chất, địa vị trong gia đình của người bói hoặc đối tượng của quẻ bói.
- Về khuynh hướng âm dương:
- Quẻ dương (Càn, Chấn, Khảm, Cấn) thường mang ý nghĩa về đạo xử thế của người trên, sự cương quyết:
- Càn: Sức mạnh sáng tác, chỉ huy.
- Chấn: Sức mạnh vùng vẫy.
- Khảm: Những khó khăn sẽ gặp và tinh thần mạo hiểm.
- Cấn: Sức mạnh cần thiết để chống lại trào lưu, hoặc để tự kiềm chế.
- Quẻ âm (Đoài, Li, Tốn, Khôn) thường mang ý nghĩa về đạo xử thế của người dưới, sự nhẫn nhục:
- Khôn: Đức tính thuận tùng, nuôi dưỡng.
- Tốn: Đức tính khiêm nhường.
- Li: Đức tính văn minh, sáng sủa.
- Đoài: Đức tính vui vẻ, hòa duyệt.
Phân biệt tính chất âm dương không có nghĩa là dương tốt, âm xấu. Ví dụ, tính cương quyết tốt ở người cha, đại tướng, nhưng lại xấu ở người vợ, người lính. Mỗi vật, mỗi người trong trời đất đều có đạo tự nhiên riêng của nó. Ta không thể nói đạo của ngọn lửa tốt hơn đạo của hòn đá.
- Quẻ dương (Càn, Chấn, Khảm, Cấn) thường mang ý nghĩa về đạo xử thế của người trên, sự cương quyết:
- Về hình tượng vật chất và ý nghĩa bao hàm:
Mỗi quẻ ba hào được tượng hình bằng một vật: Càn là trời, Khôn là đất, Đoài là nước im lìm ở các hồ ao, Khảm là nước chảy cuồn cuộn ở các sông ngòi, v.v. Từ những hình tượng đó, ta có thể rút ra những ý nghĩa khác nhau. Ví dụ: Càn chỉ phương Nam (vì mặt trời ở phương Nam lúc giữa trưa); Càn chỉ sức mạnh chỉ huy (vì trời ở trên cao, bao trùm muôn vật); Càn chỉ người cha (vì người cha là chủ gia đình).
Để giải quẻ, có hai lối chính:
- Theo tượng quẻ: Dựa vào hình tượng và ý nghĩa biểu trưng của các quái.
- Theo đức quẻ: Dựa vào phẩm chất, đức tính mà các quái biểu hiện.
II. Các Nguyên Lý Luận Giải Quẻ Toàn Thể
Sau khi đã nhận định rõ tính chất của hai quái thượng hạ, ta mới tìm hiểu ý nghĩa của quẻ. Tùy từng quẻ, ta có thể áp dụng một trong những nguyên lý sau:
1. Hai Quái Trùng Nhau (Bát Thuần Quẻ)
Nếu hai quái thượng hạ trùng nhau, trên dưới như nhau (ví dụ 8 quẻ Bát Thuần Càn, Bát Thuần Khôn, Bát Thuần Li, v.v.), trường hợp này rất giản dị, chỉ là tăng cường tính chất chung của hai quái kết hợp. Càn đã là cương cường, thì Bát Thuần Càn là cương cường tột độ; Khảm là nguy hiểm, thì Bát Thuần Khảm là nguy hiểm cực độ.
2. Chính Đạo Xua Đuổi Tà Đạo hoặc Ngược Lại
- Nếu ở dưới có toàn hào dương, còn ở trên thì toàn hào âm, thì là chính đạo xua lên đuổi tà đạo: tốt. Ví dụ: quẻ Phục (số 24) có một hào dương ở dưới; quẻ Lâm (số 19) có hai dương; quẻ Thái (số 11) có ba dương; quẻ Đại Tráng (số 34) có bốn dương; quẻ Quải (số 43) có năm dương, xua đuổi những hào âm ở trên.
- Ngược lại, nếu ở dưới toàn hào âm, còn ở trên toàn hào dương, tức là tà đạo xông lên đuổi chính đạo: xấu. Cũng có 5 quẻ thuộc trường hợp này.
3. Hào Duy Nhất Là Chủ Quẻ
Nếu trong một quẻ mà chỉ có một hào dương còn các hào khác đều âm, hoặc ngược lại chỉ có một hào âm còn những hào khác đều dương, thì hào duy nhất đó là chủ quẻ, và ảnh hưởng lớn đến ý nghĩa của quẻ. Tốt hay xấu sẽ tùy hào duy nhất đó chính hay bất chính, đắc trung hay bất trung. Đây là trường hợp của nhiều quẻ như 7, 8, 9, 10, 13, 14, 15, 16, 23, 24, 43, 44. Tuy nhiên, một số quẻ đã tùy thuộc nguyên lý 2 (như Bác số 23, Phục số 24, Quải số 43, Cấu số 44), vậy chỉ còn 8 quẻ tùy thuộc nguyên lý 3.
4. Hạ Quái Đương Tiến, Thượng Quái Đang Lui
Nguyên lý này cho rằng hạ quái là cái đang tiến, sắp được thành tựu, còn thượng quái là cái đang lui, sắp bị tiêu vong. Nguyên lý 2 trình bày ở trên chỉ là một trường hợp đặc biệt của nguyên lý chung này. Ví dụ: quẻ Sơn Hỏa Bí (số 22) và quẻ Hỏa Sơn Lữ (số 56) đều hợp bởi hai quái Cấn và Li. Ở quẻ Bí thì Li ở dưới, và ở quẻ Lữ thì Cấn ở dưới. Điều này có nghĩa là ở quẻ Bí, cái sẽ thắng lợi là Li (ánh sáng), đối phó và đuổi lui sức mạnh kìm hãm của Cấn, khiến cho xã hội được tô điểm văn minh nghệ thuật. Trái lại ở quẻ Lữ, cái sẽ thắng là Cấn (sức mạnh kìm hãm), đàn áp mọi nghệ thuật văn minh, khiến cho những bậc trí thức phải bỏ nhà ra đi (Lữ).
5. Vận Hội Tiến Triển Từ Dưới Lên Trên Theo Thời Gian
Khi quẻ tượng trưng cho một vận hội nào đó, tình trạng của vận hội đó tiến từ dưới lên trên, từ hạ quái đến thượng quái. Nguyên lý này khác với nguyên lý 4 ở chỗ không phải sức mạnh hạ quái thắng sức mạnh của thượng quái, mà là tình trạng của quẻ (do cả hai quái tạo ra) tiến theo thời gian từ lúc khởi đầu cho đến lúc kết liễu. Ví dụ: quẻ Thủy Hỏa Ký Tế (số 63) là thời kỳ đã thành công, quẻ Hỏa Thủy Vị Tế (số 64) là thời kỳ chưa thành công, đều hợp bởi hai quái Khảm và Li. Ở quẻ 63, tình trạng tốt đẹp thành công lúc ban đầu ở hạ quái, và dần dần sẽ suy sụp khi kết liễu ở thượng quái. Ngược lại ở quẻ 64, tình trạng xấu không thành công lúc ban đầu sẽ dần dần sáng sủa lúc kết liễu.
6. Sự Hòa Hợp Đức Tính Giữa Hai Quái
Cũng có khi ta phải xem xét hai quái tượng trưng cho những đức tính nào, chúng có thể hòa hợp với nhau được không. Nếu hòa hợp thì tốt, trái lại là xấu. Ví dụ:
- Quẻ Thủy Lôi Truân (số 3): Ngoại Khảm (hiểm), nội Chấn (động). Giải thích rằng quẻ này ứng vào một tình thế hiểm nguy ở ngoài, lại bị rối loạn ở trong quấy phá.
- Quẻ Thiên Trạch Lý (số 10): Trên Càn dương, dưới Đoài âm. Cương cường ở trên, vui thuận ở dưới. Như vậy là hợp với lẽ tự nhiên, hợp với Lễ: tốt.
- Quẻ Hỏa Thiên Đại Hữu (số 14): Trên Li (lửa), dưới Càn (trời). Nghĩa là lửa trên trời, tượng trưng cho một ánh sáng, một đức độ chiếu xa khắp mọi nơi, mọi vật.
7. Hào Đắc Trung (Nhị, Ngũ Chính Ứng) Cứu Vãn Quẻ Xấu
Cuối cùng, ta còn nhận thấy rằng một quẻ có ý nghĩa xấu, nhưng nếu nó có hai hào đắc trung là Nhị, Ngũ chính ứng (nghĩa là Nhị âm, Ngũ dương hoặc ngược lại), thì quẻ đó không hẳn là xấu, còn có chỗ khả thủ. Ví dụ: quẻ Thủy Sơn Kiển (số 39) rõ ràng là điềm xấu, nhưng vì có hào Lục Nhị và Cửu Ngũ chính ứng, nên được Soán từ phê: “Lợi kiến đại nhân, trinh, cát” (Có lợi khi gặp bậc đại nhân, chính đính thì tốt lành).
III. Ý Nghĩa Và Cách Luận Giải Các Hào Quẻ
A. Bản Chất Và Vai Trò Của Các Hào
Các hào trong một quẻ Kinh Dịch không chỉ là những vạch dương hay âm, mà còn mang nhiều ý nghĩa sâu sắc:
- Chỉ tình trạng diễn tiến của vấn đề theo thời gian: Từ hào Sơ (khởi thủy), đến các hào giữa (trưởng thành), rồi đến hào Thượng (cùng cực, tàn tạ). Cổ thánh hiền đã tượng hình mỗi quẻ bằng một vật (cái giếng, cái đỉnh) hoặc một vấn đề (kiện tụng, chiến tranh), nên lời giải thích các hào cũng mô tả quá trình diễn tiến của vật đó hoặc vấn đề đó một cách sát nút.
Các hào, từ Sơ đến Thượng, chi tiết hóa quá trình diễn tiến của vấn đề đang bói. Tuy nhiên, không nên quá lệ thuộc vào vật hay vấn đề tượng trưng cho quẻ bói. Quá trình diễn tiến có thể mở rộng, không nhất luật cho mọi vấn đề (hôn nhân, giáo dục, đoàn kết, chiến tranh). Mỗi quẻ bị chi phối bởi những sức mạnh siêu hình riêng biệt, hoạt động theo một kiểu đặc thù, khiến sự diễn tiến có thể đều đặn hoặc trải qua nhiều bước nhiêu khê.
- Chỉ địa vị hoặc tài đức của người bói quẻ: Quẻ cũng có thể có nhiều đáp số khác nhau tùy theo người bói quẻ, là một người ở địa vị thấp kém, tài nhỏ, hay là ở địa vị cao sang, có tài lớn, quyền hành rộng. Theo cổ nhân:
- Hào Sơ: Chỉ người dân thường, tiểu nhân.
- Hào Nhị: Chỉ bậc lại, tổng lý.
- Hào Tam: Chỉ bậc quan, hàng phủ huyện.
- Hào Tứ: Chỉ bậc đại thần gần cận vua.
- Hào Ngũ: Chỉ vị chí tôn, hoàng đế.
- Hào Thượng: Chỉ bậc quân tử hoặc quyền thế lớn.
Người bói phải thành thực nhận định việc bói đang ở giai đoạn nào (hào Sơ, các hào giữa, hay hào Thượng), và cũng phải thành thực nhận định mình là hạng người nào (nhu hòa thì là hào âm, cương cường thì là hào dương, địa vị thấp thì ở hào dưới, địa vị cao thì ở hào trên). Một số sách còn cho rằng hào biến chính là hào thích ứng với người bói quẻ.
B. Các Nguyên Lý Giải Thích Từng Hào
Để giải thích mỗi hào, ta cần dựa vào những nguyên lý sau:
- Bản chất Âm Dương của Hào: Một hào có thể là dương (còn gọi là Cửu), hoặc là âm (còn gọi là Lục). Hào dương thì cứng, sáng; hào âm thì mềm, tối, v.v.
- Vị Trí của Hào (Đắc Chính/Bất Chính):
- Những hào Sơ, Tam, Ngũ là dương vị.
- Những hào Nhị, Tứ, Thượng là âm vị.
- Một hào bản chất là dương mà cư dương vị (Sơ, Tam, Ngũ) thì là đắc chính.
- Một hào bản chất là dương mà ở âm vị (Nhị, Tứ, Thượng) thì là bất chính.
- Tương tự, hào âm cư âm vị thì đắc chính, cư dương vị thì bất chính.
Đắc chính có nghĩa là tính nết hoặc tài đức xứng đáng với địa vị của mình trong xã hội, hoặc thích hợp với hoàn cảnh của quẻ đó. Bất chính thì ngược lại. Tuy nhiên, không phải bao giờ đắc chính cũng là tốt, và bất chính cũng là xấu. Có khi, trùng dương (dương hào cư dương vị) lại là quá cương, và trùng âm (âm hào cư âm vị) lại là quá nhu nhược, đều có thể làm hỏng việc. Ngược lại, dương hào cư âm vị hoặc âm hào cư dương vị lại có khi tốt trong vài hoàn cảnh đòi hỏi cương nhu hỗ trợ, bổ khuyết cho nhau.
- Vị Trí Đắc Trung:
Hào Nhị (ở giữa hạ quái) và hào Ngũ (ở giữa thượng quái) đều là đắc trung, giữ địa vị tôn quý, còn những hào Sơ, Tam, Tứ, Thượng đều là bất trung. Chữ “trung” ở đây không có nghĩa là trung thành, mà có nghĩa là trung dung (juste milieu), không thái quá cũng không bất cập. Đắc trung mà bất chính còn tốt hơn là đắc chính mà bất trung, vì một người biết xử sự trung dung thường biết tự kiềm chế mình, không quá cương cường (nếu cư Ngũ) hoặc không quá nhu nhược (nếu cư Nhị).
- Sự Tương Ứng Giữa Các Hào:
Những cặp Sơ-Tứ, Nhị-Ngũ, Tam-Thượng thường có liên hệ với nhau. Nhưng phải một âm một dương thì mới có sự tương ứng (như điện âm điện dương thu hút nhau). Nếu cả hai đều âm hoặc đều dương thì không có sự tương ứng. Kinh Dịch đã khám phá ra sự tương ứng này, trái với thường tình cho rằng ‘đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu’. Ví dụ, trong một cuộc hợp tấu âm nhạc, phải có tiếng trầm tiếng bổng xen lẫn vào nhau thì mới hay. Hai anh hùng mới biết trọng nhau, nhưng một người phải ở địa vị quân vương, người kia phải ở địa vị thần hạ như Lưu Bị và Quan Công thì mới hợp tác được. Còn nếu cả hai đều ở địa vị quân vương như Tào Tháo và Lưu Bị, thì phải đi đến chỗ đổ vỡ.
Ngoài ra, hai hào trong mỗi quái thượng hoặc hạ, tuy không chính ứng với nhau nhưng vì gần nhau nên cũng có khi ảnh hưởng lẫn nhau (ví dụ: hào Sơ-Nhị, Tam-Tứ, Ngũ-Thượng).
C. Tầm Quan Trọng Của Lời Giải Hào
Chính vì ý nghĩa các hào thay đổi từ hào Sơ đến hào Thượng, nghĩa là tùy theo giai đoạn diễn tiến của vấn đề đang bói hoặc tài đức của người bói quẻ, mà lời giải thích các hào trở nên vô cùng quan trọng trong Kinh Dịch. Trước bất cứ vấn đề nào (giáo dục, hôn nhân, kinh tế, ngoại giao, chiến tranh, v.v.) và trong bất cứ hoàn cảnh nào (yếu kém hay hùng cường, chống đối hay hòa thuận, thái bình hay loạn lạc, v.v.), Kinh Dịch luôn dạy ta cách xử thế thích hợp với hoàn cảnh đó để đối phó.
IV. Thái Độ Khi Tuân Theo Chỉ Dẫn Của Quẻ Bói
Việc bói quẻ cần được cử hành với sự trang nghiêm và thành khẩn. Giả sử quẻ bói đã được thực hiện đúng cách, ta có thể đối mặt với ba trường hợp sau khi nhận được câu trả lời:
- Câu Trả Lời Không Ăn Nhập
Nếu câu trả lời của quẻ dường như không ăn nhập gì với câu hỏi, chớ vội cho là lãng quẻ. Ý nghĩa của quẻ thường sâu xa, kín đáo, nói với tiềm thức hơn là với trí thức của ta, nên ta chưa thể hiểu ngay. Tuy nhiên, một ngày nào đó, ta sẽ bừng hiểu (cũng như các câu sấm).
- Câu Trả Lời Xấu
Khi quẻ trả lời xấu, báo hiệu rằng việc dự định nếu tiến hành sẽ thất bại, ta nên cẩn trọng. Mặc dù có thể có nhiều lý do thuận tiện khiến ta nghĩ rằng quẻ đã bảo sai và vẫn muốn thực hiện, nhưng tương lai tiềm ẩn nhiều bất ngờ. Cái mà ta tưởng ngày nay là thuận tiện, có thể ngày mai sẽ bất lợi. Điều này, quẻ bói trông thấy mà ta không trông thấy. Ví dụ, ta hỏi: có nên hợp tác với ông X trong một việc làm ăn có lời lớn? Quẻ trả lời không nên. Nhưng vì ta thấy ông X đang làm ăn thịnh vượng, ta cứ hợp tác. Chẳng bao lâu sau, ông ta làm việc phi pháp, và ta cũng bị liên can.
- Câu Trả Lời Tốt
Nếu câu trả lời của quẻ là tốt, ta cứ vững tin mà tiến hành công việc dự định.
Kết Luận
Việc giải quẻ bói Kinh Dịch là một hành trình đi sâu vào triết lý cổ xưa, đòi hỏi sự tinh tế trong việc nhận định các quái và hào, cũng như sự am hiểu về các nguyên lý tương quan. Bằng cách thoát khỏi sự cứng nhắc của tên quẻ và tập trung vào bản chất “sức huyền bí” chi phối, chúng ta có thể khám phá ý nghĩa sâu sắc của quẻ bói. Kinh Dịch không chỉ là công cụ tiên đoán mà còn là kim chỉ nam dạy ta cách ứng xử phù hợp với mọi hoàn cảnh, giúp định hướng cuộc đời một cách minh triết và thuận theo đạo trời đất.
- Giải Mã Điềm Báo Ù Tai Phải Theo Giờ: Tốt Hay Xấu?
- Khám Phá Chân Mệnh Thiên Tử 64: Ý Nghĩa, Dịch Lý và Phong Thủy Phương Đông
- Tra Cứu Mệnh Ngũ Hành Theo Năm Sinh: Hướng Dẫn Chi Tiết Từ A Đến Z
- Con Số May Mắn 247: Bí Mật Tài Lộc Bền Vững và Sức Mạnh Tâm Linh
- Cánh Thiên Di: Hé Lộ Trí Tuệ Bản Năng Và Ý Nghĩa Nơi Trở Về